Thứ hai 28/7/2025
in trang
Kết quả thực hiện đề án “Phát triển KT - XH vùng các dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao”
 

Những năm qua nhờ thực hiện Quyết định 1672/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao” và Nghị quyết số 30/2016/NQ - HĐND, ngày 28/7/2016 của HĐND tỉnh về Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020, cùng với các chính sách hỗ trợ khác và đặc biệt là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đời sống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh đã được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo hằng năm giảm dần đến năm 2018 toàn tỉnh chỉ còn 25,26% hộ nghèo.

 

 Nông dân huyện Tam Đường tăng gia sản xuất

Tỉnh Lai Châu gồm 20 dân tộc cùng sinh sống, trong đó 02 dân tộc Mảng, La Hủ là dân tộc rất ít người, cư trú tập trung ở 69 bản thuộc 16 xã của 03 huyện Mường Tè, Nậm Nhùn, Sìn Hồ, người dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp, hiệu quả sản xuất còn thấp nên đời sống của người dân còn nhiều khó khăm. Bám sát đặc điểm, Tỉnh uỷ, Hội dồng nhân dân xây dựng Nghị quyết số 30/2016/NQ - HĐND, ngày 28/7/2016 của HĐND tỉnh về Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó, ở các cấp, Ban Chỉ đạo giảm nghèo bền vững đã thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, quan điểm và các nội dung, chính sách của Đảng liên quan đến công tác xóa đói, giảm nghèo cũng được thực hiện có hiệu quả. Thông qua những hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng đã giúp cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc trong tỉnh nhận thức đầy đủ về vị trí, ý nghĩa của công tác xóa đói, giảm nghèo. Đa phần bà con nhân dân đã nhận thức được đây là điều kiện thuận lợi để sớm vươn lên thoát nghèo, nâng cao đời sống gia đình và xây dựng quê hương.

 Bên cạnh đó, tỉnh cũng đẩy mạnh thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ y tế - giáo dục, hỗ trợ khuyến nông – khuyến lâm, hỗ trợ sản xuất – tiêu thụ sản phẩm… Trong đó, nhiều mô hình khuyến nông - khuyến lâm có hiệu quả đã giúp cho lao động nông thôn có thêm cơ hội tiếp cận với các phương thức sản xuất mới, hiệu quả, bền vững. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ tín dụng; cây, con giống cũng đã trực tiếp giúp đỡ người lao động, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa có điều kiện phát triển sản xuất. Nhờ vậy, đến nay các bản mà dân tộc người Cống sinh sống, đường giao thông được xây dựng mới và nâng cấp theo tiêu chí giao thông loại C mặt cấp phối và bê tông, đảm bảo giao thông đi được 4 mùa. Đa số các bản đều có lớp học kiên cố, trang thiết bị dạy học cơ bản đáp ứng nhu cầu dạy và học. 100% học sinh trong độ tuổi đến trường được đi học và thụ hưởng các chính sách về giáo dục. Hệ thống điện nước dần trải khắp ở các bản. Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân được tăng cường, toàn bộ trẻ em sơ sinh và phụ nữ mang thai được hỗ trợ về dinh dưỡng. Các bản đều có nhân viên y tế thôn bản được đào tạo. Bên cạnh đó, trang phục và nhạc cụ dân tộc của đồng bào người dân được khôi phục lại. Hiện các bản đều có nghệ nhân truyền bá văn hóa dân tộc và đội văn nghệ thôn bản phục vụ nhân dân, đồng thời tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc La Hủ, Mảng, Cống để tạo nguồn nhân lực cho địa phương cũng được tỉnh coi trọng. Hàng năm, tỉnh đã giành kinh phí để mở các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học ngoại ngữ và đặc biệt được cử tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kỹ năng nghiệp cho cán bộ là người dân tộc. Ngoài ra, công tác khuyến nông khuyến lâm được chú trọng. Các mô hình sản xuất được triển khai, hướng dẫn và tạo điều kiện cho người dân học hỏi, nhân rộng, ổn định sản xuất và sinh hoạt, các bản không còn hiện tượng du canh, du cư. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm rõ rệt.

 Chỉ tính riêng năm 2018 tỉnh đã chi hơn 14 tỷ đồng để hỗ trợ giống vật tư nông nghiệp cho 2.907 hộ, mở 46 lớp tập huấn kiến thức sản xuất cho người dân; hỗ trợ học sinh mầm non, học sinh tiểu học học tại bản, học sinh trung học cơ sở bán trú và không ở bán trú và học sinh trung học phổ thông; Cấp thuốc cho thôn, bản; phụ nữ trong thời kỳ mang thai và sinh nở, dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh, người nhà bệnh nhân điều trị tại bệnh viện, Hỗ trợ sản xuất các chương trình truyền hình về các đề tài văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, đời sống, kinh tế - xã hội; Cấp trang thiết bị cho nhà sinh hoạt cộng đồng; Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở; Dạy tiếng dân tộc...

 

 

 Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư, thực hiện đề án, do kinh phí hạn hẹp, lộ trình bố trí nguồn vốn còn thụ động, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn giao của Trung ương nên tỉnh chưa được phân bổ vốn để thực hiện đối với nội dung đầu tư cơ sở hạ tầng. Một bộ phận người dân còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa có ý thức vươn lên. Bên cạnh đó, địa bàn thực hiện dự án ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn phân tán rộng ở ba huyện, trong khi cán bộ thực hiện đề án chủ yếu là kiêm nhiệm, số lượng mỏng chưa chuyên sâu trong việc tổ chức quản lý dự án, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện kế hoạch vốn giao. Mặt khác, Đề án được phê duyệt từ năm 2012, đến nay một số nội dung không còn phù hợp với thực tế, một số nội dung đã có các chính sách khác hỗ trợ. Vì vậy, trong những năm tiếp theo, tỉnh sẽ đề nghị Ủy ban Dân tộc, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các Bộ ngành liên quan cho tỉnh được phép kéo dài các nội dung hỗ trợ đến hết năm 2020 và tăng mức đầu tư và hỗ trợ đối với nguồn vốn sự nghiệp để đảm bảo cuộc sống ổn định lâu dài cho Nhân dân, hỗ trợ kinh phí đi lại và ăn, nghỉ cho người nhà bệnh nhân đi nằm viện và điều trị và có cơ chế chính sách đặc thù, đảm bảo tính linh hoạt cho địa phương trong quá trình tổ chức thực hiện Đề án.

 
Thu Hoài